Câu 1: Nêu nhận xét về hàm nghĩa của các từ “vội", “xăm xăm”, “băng”.
Trong đoạn trich "Thế nguyền" Nguyễn Du đã có đến hai lần dùng chữ "vội" một lần chữ "xăm xăm" về một lần chữ "băng" . Những chữ vừa nói thể hiện một không khí gấp gáp, khẩn trương của cuộc thề nguyền. Phải chăng Kiểu như tranh đua cùng định mệnh, tranh đua với thời gian đang ám ảnh nàng. Nói đúng hơn cả là vì tình yêu: "Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường. Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa". "Vì yêu Kim Trọng mà Kiều khẩn trương, vội vã đến với người yêu một cách hết sức chủ động. Đây đúng là một cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Du. Theo quan niệm thời bấy giờ trong quan hệ nam nữ, người con trai đóng vai trò chủ động nói theo dân gian là trâu đi tim cột. Nhưng ở đây, tác giả Truyện Kiều ngược lại, để cột tìm trâu nghĩa là sự chủ động ở Kiều, ở người con gái. Đó đúng là cái nhìn tiến bộ thời bấy giờ.
Câu 2. Không gian thơ mộng và thiêng liêng của cuộc thề nguyền được Nguyễn Du tả như thế nào?
Không gian thần tiên và thiêng liêng của cuộc thế nguyền đã được Nguyễn Du tả bằng các hình ảnh: "Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê", bằng "tiếng sen khẽ động", bằng trăng giọi nhặt thưa, ngọn đèn hắt hiu hư ảo. Không gian đó tuy đẹp nhưng mơ hồ, khiến Kim Trọng tưởng mình đang sống trong mơ. Có người cho rằng không gian dó như cần thêm ánh sáng, thèm cả hương thơm và sự ấm áp. Bởi vì con người rất cô đơn giữa trời đất bao la.
Câu 3: Liên hệ với trích đoạn “Trao duyên” để chỉ ra tính chất logic nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Kiều.
Đoạn trích Thề nguyền cổ liên hệ với các đoạn khác đặc biệt là đoạn Trao duyên. Tình yêu đôi lứa giữa Kim Trọng và Thúy Kiều rất đỗi thiêng liêng, sự gắn bó đôi bên do tính cảm tha thiết đã dành, mà còn dậm đà sắc thái tâm linh: "Tiền thề cùng thảo một chương. Tóc mây một món dao vàng chia đôi..". Lời thề nguyền gắn bó của hai người đã được trăng vàng chứng giám “Vừng trăng vằng vặc giữa trời. Đinh minh hai miệng một lời song song". Đủ thấy những hình ảnh trong kí ức Kiều khi kể lại cho Thúy Vân: Đốt lò hương ấy/ so tơ phím này là những hình ảnh hiện thực trong đêm thề nguyền này.
Đoạn Trao duyên đúng là sự tiếp tục một cách lô-gic quan niệm và cách nhìn nhận tình yêu của Kiều. Ngoài ra, đoạn Thề nguyền cũng góp phần giúp người đọc hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì đó cũng là một vầng sáng tình yêu thật đẹp đối với Kiều.
Hướng dẫn giải
Câu 1: Nêu nhận xét về hàm nghĩa của các từ “vội", “xăm xăm”, “băng”.
Trong đoạn trich "Thế nguyền" Nguyễn Du đã có đến hai lần dùng chữ "vội" một lần chữ "xăm xăm" về một lần chữ "băng" . Những chữ vừa nói thể hiện một không khí gấp gáp, khẩn trương của cuộc thề nguyền. Phải chăng Kiểu như tranh đua cùng định mệnh, tranh đua với thời gian đang ám ảnh nàng. Nói đúng hơn cả là vì tình yêu: "Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường. Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa". "Vì yêu Kim Trọng mà Kiều khẩn trương, vội vã đến với người yêu một cách hết sức chủ động. Đây đúng là một cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Du. Theo quan niệm thời bấy giờ trong quan hệ nam nữ, người con trai đóng vai trò chủ động nói theo dân gian là trâu đi tim cột. Nhưng ở đây, tác giả Truyện Kiều ngược lại, để cột tìm trâu nghĩa là sự chủ động ở Kiều, ở người con gái. Đó đúng là cái nhìn tiến bộ thời bấy giờ.
Câu 2. Không gian thơ mộng và thiêng liêng của cuộc thề nguyền được Nguyễn Du tả như thế nào?
Không gian thần tiên và thiêng liêng của cuộc thế nguyền đã được Nguyễn Du tả bằng các hình ảnh: "Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê", bằng "tiếng sen khẽ động", bằng trăng giọi nhặt thưa, ngọn đèn hắt hiu hư ảo. Không gian đó tuy đẹp nhưng mơ hồ, khiến Kim Trọng tưởng mình đang sống trong mơ. Có người cho rằng không gian dó như cần thêm ánh sáng, thèm cả hương thơm và sự ấm áp. Bởi vì con người rất cô đơn giữa trời đất bao la.
Câu 3: Liên hệ với trích đoạn “Trao duyên” để chỉ ra tính chất logic nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Kiều.
Đoạn trích Thề nguyền cổ liên hệ với các đoạn khác đặc biệt là đoạn Trao duyên. Tình yêu đôi lứa giữa Kim Trọng và Thúy Kiều rất đỗi thiêng liêng, sự gắn bó đôi bên do tính cảm tha thiết đã dành, mà còn dậm đà sắc thái tâm linh: "Tiền thề cùng thảo một chương. Tóc mây một món dao vàng chia đôi..". Lời thề nguyền gắn bó của hai người đã được trăng vàng chứng giám “Vừng trăng vằng vặc giữa trời. Đinh minh hai miệng một lời song song". Đủ thấy những hình ảnh trong kí ức Kiều khi kể lại cho Thúy Vân: Đốt lò hương ấy/ so tơ phím này là những hình ảnh hiện thực trong đêm thề nguyền này.
Đoạn Trao duyên đúng là sự tiếp tục một cách lô-gic quan niệm và cách nhìn nhận tình yêu của Kiều. Ngoài ra, đoạn Thề nguyền cũng góp phần giúp người đọc hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì đó cũng là một vầng sáng tình yêu thật đẹp đối với Kiều.
Gửi 6 năm trước