Đặtvấn đề (Từ đầu đến không ai chối cãi được): Mục đích lí tưởng chiến đấu của dân tộc ta ngày nay.
Giải quyết vấn đề: (Từ "Thế mà" đến "Dân tộc đó phải được độc lập"): Tố cáo tội ác bọn thực dân Pháp "Lợidụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta": vi phạm chân lí của thời đại.
Kết thúc vẩn đề (Đoạn còn lại): Tuyên bố độc lập và khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững độc lập.
Tuyên ngôn thường có ba phần:
Nêu nguyên lí chung.
Chứng minh nguyên lí ấy.
Tuyên ngôn.
Tính logic chặt chẽ của lập luận đã được thể hiện ở chỗ từ nguyên lí chung làm cơ sở lí luận dẫn đến những dẫn chứng thực tế cần chứng minh để đi đến mục đích là phần tuyên ngôn luận điểm kết luận của văn bản.
Câu 2:
Nếu căn cứ vào lời mở đầu của bản Tuyên ngôn ("Hỡi đồng bào cả nước") và lời tuyên bố ở cuối bản Tuyên ngôn ("Chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng") thì Tuyên ngôn Độc lập viết cho đồng bào cả nước ta và nhân dân thế giới.
Thực ra không đơn giản như vậy. Cần thấy rằng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn thì ở phía Nam, quân viễn chinh Pháp nấp sau lưng quân đội Anh (có nhiệm vụ tước vũ khí quân đội Nhật) đã tiến vào Đông Dương. Còn ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch cũng chuẩn bị vượt biên giới nước ta, sau lưng chúng là đế quốc Mĩ. Đó là những ngày hết sức căng thẳng. Hồ Chủ tịch biết rõ do mâu thuẫn giữa Anh, Mĩ và Pháp với Liên Xô; Anh, Mĩ có thể sẽ nhân nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương. Nhằm chuẩn bị cho cuộc tái xâm lược đó, Pháp đã sớm tung luận điệu tuyên truyền trước dư luận thế giới rằng việc chúng trở lại Đông Dương là hợp tình hợp lí. Bởi Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công lao khai hóa, xây dựng đất nước này. Pháp thuộc phe Đồng minh chống phát xít nay phát xít Nhật bại trận, đã đầu hàng thì Đông Dương trở về tay Pháp là một lẽ đương nhiên.
Như vậy, đối tượng mà bản Tuyên ngôn Độc lập hướng tới không những là đồng bào cả nước ta, mà còn là nhân dân thế giới, trước hết là Mĩ, Anh và Pháp. Do đó, bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta mà còn bao hàm cuộc tranh luận để bác bỏ luận điệu xảo quyệt của kẻ địch trước dư luận quốc tế.
Điều này giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam lại mở đầu bằng việc trích dẫn lời văn của bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp "lấy gậy ông đập lưng ông". Bọn đế quốc Mĩ, thực dân Pháp lẽ nào lại dám bác bỏ những danh ngôn của tổ tiên họ.
Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn thể hiện niềm tự hào dân tộc: đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập và ba bản tuyên ngôn lên ngang hàng với nhau.
Câu 3:
Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn Độc lập, để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Vỉệt Nam ta, tác già đẫ sử dụng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Trước hết là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân.
Chúng thường khoe khoang công lao khai hoá đối với Đông Dương. Bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ rõ trong 80 năm thống trị nước ta, thực dân Pháp đã thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ, chia rẽ ba Kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng đã gây ra nạn đói khiến "từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói". Ị
Chúng kể công "bảo hộ" thì bản Tuyên ngôn đã chĩ rõ đó là tội "trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật".
Thực dân Pháp cho rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại thì bản Tuyên ngôn đã vạch rõ sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền, lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Từ đó, Người viết Tuyên ngôn dẫn đến một kết luận hùng hồn: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập".
Để khẳng định điều vừa nói, tác giả đã đưa ra nhưng lí lẽ mạnh mẽ và vững chắc: "Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt minh, đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay phái xít Nhật".
Bản Tuyên ngôn cũng cho thấy, dù thực dân Pháp đê hèn, tàn bạo nhưng nhândân ta vẫn giữ thái độ khoan dung, nhân đạo đối với kẻ thù đã thất thế: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ.
Từ những lập luận vừa nói, tác giả khẳng định một dân tộc đã hứng chịu bao cơ cực, lầm than dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh hùng quật khởi chiến đấu cho độc lập, tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít lại nhân đạo, bác ái như đã nói, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập.
Trong lời kết luận, Người viết Tuyên ngôn còn khẳng định mạnh mẽ, tăng cấp hơn nữa: Nước Việt Nam có quyền hưởng tụ do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Cũng chính vì thế mà Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải dễ giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Câu 4
Bản Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Ý chí và khát vọng đó bộc lộ trong toàn văn bản nhưng rõ rệt nhất là ở phần cuối, đặc biệt là ở hai đoạn văn "Một dân tộc đã gan góc... phải được được độc lập"; "Nước Việt Nam có quyền... giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Giọng văn hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục ấy là của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh, bộc lộ một tấm lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc mãnh liệt của một con người mang nặng khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập ấy.
Chính tấm lòng của vị Cha già dân tộc đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một vãn bản chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn gây xúc động mãnh liệt lòng người.
Hướng dẫn giải
Câu 1:
Bố cục: Ba phần:
Tuyên ngôn thường có ba phần:
Tính logic chặt chẽ của lập luận đã được thể hiện ở chỗ từ nguyên lí chung làm cơ sở lí luận dẫn đến những dẫn chứng thực tế cần chứng minh để đi đến mục đích là phần tuyên ngôn luận điểm kết luận của văn bản.
Câu 2:
Nếu căn cứ vào lời mở đầu của bản Tuyên ngôn ("Hỡi đồng bào cả nước") và lời tuyên bố ở cuối bản Tuyên ngôn ("Chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng") thì Tuyên ngôn Độc lập viết cho đồng bào cả nước ta và nhân dân thế giới.
Thực ra không đơn giản như vậy. Cần thấy rằng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn thì ở phía Nam, quân viễn chinh Pháp nấp sau lưng quân đội Anh (có nhiệm vụ tước vũ khí quân đội Nhật) đã tiến vào Đông Dương. Còn ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch cũng chuẩn bị vượt biên giới nước ta, sau lưng chúng là đế quốc Mĩ. Đó là những ngày hết sức căng thẳng. Hồ Chủ tịch biết rõ do mâu thuẫn giữa Anh, Mĩ và Pháp với Liên Xô; Anh, Mĩ có thể sẽ nhân nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương. Nhằm chuẩn bị cho cuộc tái xâm lược đó, Pháp đã sớm tung luận điệu tuyên truyền trước dư luận thế giới rằng việc chúng trở lại Đông Dương là hợp tình hợp lí. Bởi Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công lao khai hóa, xây dựng đất nước này. Pháp thuộc phe Đồng minh chống phát xít nay phát xít Nhật bại trận, đã đầu hàng thì Đông Dương trở về tay Pháp là một lẽ đương nhiên.
Như vậy, đối tượng mà bản Tuyên ngôn Độc lập hướng tới không những là đồng bào cả nước ta, mà còn là nhân dân thế giới, trước hết là Mĩ, Anh và Pháp. Do đó, bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta mà còn bao hàm cuộc tranh luận để bác bỏ luận điệu xảo quyệt của kẻ địch trước dư luận quốc tế.
Điều này giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam lại mở đầu bằng việc trích dẫn lời văn của bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp "lấy gậy ông đập lưng ông". Bọn đế quốc Mĩ, thực dân Pháp lẽ nào lại dám bác bỏ những danh ngôn của tổ tiên họ.
Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn thể hiện niềm tự hào dân tộc: đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập và ba bản tuyên ngôn lên ngang hàng với nhau.
Câu 3:
Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn Độc lập, để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Vỉệt Nam ta, tác già đẫ sử dụng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Trước hết là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân.
Chúng thường khoe khoang công lao khai hoá đối với Đông Dương. Bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ rõ trong 80 năm thống trị nước ta, thực dân Pháp đã thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ, chia rẽ ba Kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng đã gây ra nạn đói khiến "từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói". Ị
Chúng kể công "bảo hộ" thì bản Tuyên ngôn đã chĩ rõ đó là tội "trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật".
Thực dân Pháp cho rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại thì bản Tuyên ngôn đã vạch rõ sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền, lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Từ đó, Người viết Tuyên ngôn dẫn đến một kết luận hùng hồn: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập".
Để khẳng định điều vừa nói, tác giả đã đưa ra nhưng lí lẽ mạnh mẽ và vững chắc: "Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt minh, đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay phái xít Nhật".
Bản Tuyên ngôn cũng cho thấy, dù thực dân Pháp đê hèn, tàn bạo nhưng nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan dung, nhân đạo đối với kẻ thù đã thất thế: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ.
Từ những lập luận vừa nói, tác giả khẳng định một dân tộc đã hứng chịu bao cơ cực, lầm than dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh hùng quật khởi chiến đấu cho độc lập, tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít lại nhân đạo, bác ái như đã nói, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập.
Trong lời kết luận, Người viết Tuyên ngôn còn khẳng định mạnh mẽ, tăng cấp hơn nữa: Nước Việt Nam có quyền hưởng tụ do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Cũng chính vì thế mà Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải dễ giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Câu 4
Bản Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Ý chí và khát vọng đó bộc lộ trong toàn văn bản nhưng rõ rệt nhất là ở phần cuối, đặc biệt là ở hai đoạn văn "Một dân tộc đã gan góc... phải được được độc lập"; "Nước Việt Nam có quyền... giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Giọng văn hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục ấy là của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh, bộc lộ một tấm lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc mãnh liệt của một con người mang nặng khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập ấy.
Chính tấm lòng của vị Cha già dân tộc đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một vãn bản chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn gây xúc động mãnh liệt lòng người.
Gửi 6 năm trước