Hầu Trời - Tản Đà - Soạn bài...

Hầu Trời - Tản Đà - Soạn bài Hầu Trời- Soạn văn lớp 11

0

1 Câu trả lời

Mới nhất Cũ nhất Phiếu bầu
0

Hướng dẫn giải

1. Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể?

Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ:

Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.

Tác giả vào chuyện đột ngột độc đáo và có duyên. Thật đúng như lời bình của nhà thơ Xuân Diệu: "Vào đột ngột câu đầu, cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.

Khổ thơ đầu có sức hấp dẫn người đọc vì đã tạo được mối nghi vấn gợi được trí tò mò muốn tìm biết đến cùng câu chuyện. Chuyện của thi sĩ bắt đầu là sự bán tín bán nghi: “Chẳng biết có hay không” và tiếp liền với hai từ phủ định chẳng, không là đến ba từ xác định thật


Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên...

Bốn từ thật khẳng định mạnh mẽ lại được nhắc đi nhắc lại như thể củng cố lòng tin của người đọc: đúng là chuyện này có thật. Điều này làm cho câu chuyện thi sĩ sắp kể thêm hấp dẫn người đọc, khó ai có thể bỏ qua được.

Bôn từ thật khẳng định mạnh mẽ lại được nhắc đi nhắc lại như thể củng cố lòng tin của người đọc: đúng là chuyện này có thật. Điều nàyl làm cho câu chuyện thi sĩ sắp kể thêm hấp dẫn người đọc, khổ ai có|thể bỏ qua được.

2.Tác giả đã kể lại chuyện mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe như thế nào? (Thái độ của tác giả, của chư tiên và những lời khen của Trời.) Qua đoạn thơ đó, anh (chị) cảm nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ? Nhận xét về giọng kể của tác giả.

Sau khi kể lí do cùng thời điểm mình được “gọi lên” hầu trời, thi sĩ kể I tiếp về cuộc đọc thơ đầy đắc ý của mình cho trời và chư tiên nghe giữa chốn “Thiên môn đế khuyết”. Đây cũng là phần chính của bài thơ.

Đúng là thi sĩ và cả người đọc như đang tham gia thực sự vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút “sướng lạ lùng”, đắc ý và cao hứng đến tột bậc. Thi sĩ công khai nói về cái tài của mình:

Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.

Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!...

Thi sĩ đọc thơ không chỉ được trời khen mà cả chư tiên nghe cũng rất xúc động tán thưởng và hâm mộ:

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi Hằng Nga,Chức Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiều Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.

Nghe Trời hỏi họ tên quê quán, thi sĩ đã dành hẳn một khổ thơ

Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ờ Ả châu về Địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.

Thực ra trong thơ trung đại đã có nhiều trường hợp xưng danh: Hồ Xuân Hương: “Này của Xuân Hương mới quêt rồi” (Mời trầu)', Nguyễn Du: “Bất tri tam bách dư niên hâu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhu (Đọc Tiểu Thanh kí).

Nhưng ở đây cung cách xưng danh của Tản Đà có khác. Thi sĩ cung khai lí lịch khá rõ ràng, rất hiện đại: đầy đủ cả bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh... một cách trịnh trọng

Tản Đà chỉ kể như vậy. Nhưng qua lời kể, người đọc thấy được bao điều về cá tính và tâm hồn thi sĩ. Thi sĩ hơn ai hết rất ý thức về tài năng thơ của mình. Không những thế, ông còn táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã “cái tôi” đó với ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của thi sĩ. Ông kiêu hãnh cung khai mình là đứa con của “Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt” trong hoàn cảnh đất nước đã mất chủ quyền. Cách nói của Tản Đà chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm non nước quý giá biết bao.

Tản Đà cũng rất ngông khi tìm đến tận Thiên đình để khẳng định tài năng của mình, giá trị đích thực của mình giữa cuộc đời trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Trong tình cảnh “văn chương hạ giới rẻ như bèo” thân phận văn nhân bị rẻ rúng thì đó là niềm khao khát rất đỗi chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Vào thời điểm ấy, Thơ mới chưa xuất hiện thế mà Tản Đà đã lộ diện với tâm hồn lãng mạn độc đáo: ý thức về bản ngã, “cái tôi” cá tính ngông.

Giọng kể của tác giả đầy hóm hỉnh, có duyên mà cũng có phần ngông nghênh tự đắc, thái độ ngông nghênh tự đắc dường như đã được cố tình phóng đại có ý thức để gây được ấn tượng mãnh liệt đôi với người đọc.

3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị), hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ với nhau như thế nào?

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn. Tản Đà lãng mạn nhưng không thoát li hẳn cuộc đời. Thi sĩ vẫn ý thức về trách nhiệm với đời, vẫn khát khao được giúp đời nên đã nói đến nhiệm vụ truyền bá “thiên lương” mà trời giao cho mình.

Thế nhưng cuộc đời, nói cụ thể hơn là cái xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã đối xử với ông, người nghệ sĩ tài hoa và với nhiều nhà văn tài hoa khác ra sao?

Một bức tranh rất đỗi chân thực đã được Tản Đà vẽ lên tiếp đó:

Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó.

Giấy người mực người thuê người in

Mướn cửa hàng người bán phường phố.

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.

Lo ăn lo mặc hết ngày tháng

Học ngày một kém tuổi ngày cao

Sức trong non yếu ngoài chen rấp

Một cây che chống bốn năm chiều...

Cuộc đời của Tản Đà và những nghệ sĩ tài hoa khác thời bây giờ đều cơ cực và tủi hổ thế đó: Không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng làm chẳng đủ ăn lại còn bị ép nhiều chiều. Tài hoa rất mực như thi sĩ của. chúng ta vậy mà cả đời vẫn sống trong cảnh nghèo khổ cùng quẫn:

Hôm qua chửa có tiền nhà

Suốt đêm thơ chẳng nghĩ ra câu nào

Đi ra rồi lại đi vào

Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ.

4. Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay? (Chú ý các mặt: thể loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc, hư cấu nghệ thuật,...)

Về mặt nghệ thuật, bài thơ Hầu Trời của Tản Đà cố ít nhiều dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại:

Trước tiên là về thể loại, tác giả không dùng các thể loại phổ biến cũ như thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, lục bát hay song thất lục bát mà dùng thể thất ngôn trường thiên - một thể khá tự do, không bị ràng buộc; bởi một khuôn thước kết cấu nào. Vì vậy, nguồn cảm xúc của tác giả được bộc lộ một cách thoải mái, phóng túng và tự do.

Về ngôn ngữ, bài thơ có ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường, ít cách diệu, ước lệ mà tinh tế chọn lọc và gợi cảm.

Cách kể chuyện đầy tính chất bình dân giọng khôi hài, hốm hỉnh, có duyên, hấp dẫn, gây ấn tượng đối với người dọc. Trong bài thơ, tác giả vừa ỉà người kể chuyện vừa ỉà nhân vật chính với cảm xúc biểu hiện phóng túng, với thái độ hào hứng trước một đối tượng nghe chuyện (giả định) đồng đẳng rất mực thân tình, không hề gò bố, gượng ép.

Đúng là thi sĩ Tản Đà đã tìm được hướng đi đúng đắn để tự khẳng dịnh mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang đi dần vào dấu chấm dứt.

LUYỆN TẬP

1. Bài Hầu trời có ý tưởng gì hoặc câu thơ nào làm cho anh (chị) thích thú nhất? Hãy viết một đoạn văn trình bày cảm xúc của mình.

Học sinh tự lựa chọn ý tưởng hoặc câu thơ mà mình thích thú nhất và sau đó viết một đoạn văn để trình bày cảm xúc của mình.

2*. Anh (chị) hiểu thế nào là "ngông"? Cái "ngông" trong văn chương thường bộc lộ một thái độ sống như thế nào? (Có thể dẫn chứng qua những tác phẩm đã học.) Cái "ngông" của thi sĩ Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm nào và có thể giải thích ra sao?

Để làm bài tập này, các bạn có thể tham khảo:

Khái niệm “ngông’’ trong nghiên cứu vãn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá nhân ấy cũng chỉ được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể những quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ thời trung đại) về vũ trụ, nhân sinh và nghệ thuật. Tản Đà không phải là một trường hợp “ngông” cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát., dều “ngông”. Tuy nhiên, cái “ngông” của Tản Đà vẫn có những điểm đặc thù do sự quy định của thời đại.

Trong bài Hầu Trời, cái “ngông” của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:

  • Tự cho mình “văn hay” đến mức Trời cũng phải tán thường.
  • Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm với mình.
  • Xem mình là một “trích tiên” bị “đày xuống hạ giới vì tội ngông”.
  • Nhận mình là người nhá Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả (thực hành “thiên ìương”).

Ngoài ra, nguyên việc nhà thơ bịa ra chuyện “hầu Trời”, nói như thể đố là chuyện thật đã hàm chứa một sự khiêu khích nhất định đối với cái nhìn tôn ti, đẳng cấp dang thống trị xã hội lúc ấy. Đó là chưa kể việc Tản Đà “dám” hình dung các đấng siêu nhiên như những đối tượng rất đỗi bình dân, thậm chí ngang hàng với mình.

Cái “ngông” của Tản Đà có nhiều điểm gặp lại cái “ngông” của Nguyền Công Trứ (thể hiện qua Bài ca ngất ngưởng): ý thức rất cao về tài năng của bản thân; dám nói giọng bông lơn về những đốí tượng như Trời, Tiên, Bụt; dám phô bày toàn bộ con ngườỉ “vượt ngoài khuôn khổ” của mình trước thiên hạ, như muốn “giỡn mặt” thiên hạ.

Nói về điểm khác giữa hai người, có thể thây: “ngông” ở Tản Đà là cối “ngông” của kẻ tuy không phải sống vô trách nhiệm với xã hội nhưng không còn xem vấn đề “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” (Nguyễn Công Trứ) là chuyện hệ trọng nữa. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe về cơ bản là cái tài thuộc phạm trù vãn chương. Rõ ràng đây nhà thơ đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm (mà thông thường các nhà nho vẫn đặt trên vai mình) để sống thoải mái hơn với cái tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.

(Trích Ngữ văn 11 nâng cao - Sách giáo viên)

Gửi 6 năm trước

Thêm bình luận

Câu trả lời của bạn

ĐĂNG NHẬP