1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.
Bài thơ cố thể chia ra làm 3 đoạn:
Đoạn 1: 13 câu thơ đầu: Tình yêu tha thiết đối với cuộc sống trần thế.
Đoạn 2: Từ câu 14 đến câu 29: Nỗi băn khoăn trước sự ngắn ngủi của kiếp người trước sự chóng vánh của thời gian.
Đoạn 3: Phần còn lại: Lời giục giã cuống quýt, vội vàng tận hưởng tuổi xuân của mình giữa mùa xuân trần thế.
2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian?
Mở đầu bài thơ là một ý muôn táo bạo, ngông cuồng:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muôn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Bốn câu trên như một lời đề từ của bài thơ đã bộc lộ một khao khát lớn của Xuân Diệu. Nhà thơ “muốn tắt nắng đi”, “muốn buộc gió lại’ nói một cách khác là muôn níu giữ thời gian. Ý muốn này la lùng và cháy bỏng xiết bao! Phải chăng chỉ vì hồn thơ quá tha thiết với cuộc sống trần thế đầy hương màu, đang lo lắng trước sự “sao dời vật đổi 1 của đất trời của cảnh vật... nên có ý muôn ôm giữ tất cả để được còn nguyên vẹn mãi cái vẻ đẹp vốn có của nó. Nhà thơ sợ mất nó, cũngl chẳng khác gì một người có báu vật luôn luôn lo sợ là báu vật kia sễl tuột khỏi tay mình.
thứ hương màu của hạnh phúc và tình yêu, đó là:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Đúng là một khu vườn xuân rộng mở với đủ đầy những cảnh sắc mê li, với những điệp ngữ, này đây”, "này đây” dồn dập, đặt song song nhau như sắp sẵn, như dọn bày ra những món ăn tinh thần với tất cả sắc hương dầy quyến rũ của cuộc đời. Với trái tim sôi sục ,với đôi mắt “xanh non” háo hức, Xuân Diệu đã phát hiện ra một không gian tươi thắm; tràn ngập lá nõn, hoa thơm, trái ngọt và cả ánh sáng của tình yêu. Đó chính là một thiên đường có thật ngay trong cuộc sống xung quanh chúng ta. Ý thơ mới, lời thơ mới, với những hình ảnh trùng điệp, cho thấy trong mắt thi nhân, mọi thứ đều mới lạ và hấp dẫn đang mời gọi rủ rê:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Câu thơ thật đẹp, đầy tính sáng tạo. Ánh sáng của buổi sớm mai như phát tiết từ đôi mắt tuyệt vời của cô gái vừa tỉnh giấc nồng, chớp hàng mi, mở bừng ra muôn ánh hào quang rạng rỡ. Hình ảnh này được nhà thơ tả lại trong một bài thơ khác: “Rặng mi dài xao động ánh dương vui” cũng đẹp không kém.
Đặc biệt hơn, sau đó là một so sánh tuyệt vời rất mực Xuân Diệu:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Hình ảnh so sánh vừa táo bạo vừa thiên về cảm giác. Nếu liên kết hình ảnh này với hình ảnh “tuần tháng mật” ở bên trên, người đọc sẽ thấy ngay lối so sánh này đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, với con người, niềm khát khao về tình yêu của thi nhân. Đến đây, người đọc tưởng như có thể hình dung được bóng dáng thi nhân đang “say sưa”, “chếnh choáng” trước vẻ đẹp “no nê”, “đủ đầy” của mùa xuân trăm màu trăm sắc.
Nhưng sự sung sướng ấy không trọn vẹn, đúng như lời thi nhân đã tâm sự: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm khéo đặt giữa câu thơ nẩy khiến ta hình dung bước chần của chàng trai trẻ Xuân Diệu như bất chợt khựng lại giữa khu vườn xuân sắc, khi nhận ra giới hạn ngắn ngủi của cuộc đời:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Ba câu thơ trên làm thành một cảm nhận về thời gian của nhà thơ.
3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
a. Cảnh vật miêu tả trong đoạn thơ (từ câu 5 đến câu 11) hiện ra đầy sức bấp dẫn, đầy sức quyến rũ của một khu vườn xuân rộng mở gợi đủ hương màu của hạnh phúc và tình yêu: trong cặp mắt xanh non của Xuân Diệu cả trời xanh, hoa lá, bướm ong... tất cả đều trinh nguyên, mới mẻ, tươi tắn và mê say. Có một thiên đường hiển, hiện ngay trên mặt đất này chẳng cần phải nhọc công kiếm tìm ổ một chốn mông lung, huyền ảo nào. Những điệp ngữ này đây, này đây dồn dập thể hiện sự giàu có bất tận của thiên nhiên. Cả một thiên đường tuyệt diệu ở cuộc đời thực, cuộc đời trần thế này đây được cảm nhận vồ vập bởi trái tim đa cảm của nhà thơ. Lời thơ là một chuỗi tiếng reo vui
b. Cảnh vật được miêu tá trong đoạn thơ từ câu 24 đến câu 29), lại khác hẳn. Tất cá đều rớm vị chia phôi, than tiễn biệt, hờn xa cách, sợ tàn phai... Thiên nhiên, cảnh vật như cũng có cùng tâm trạng luyến tiếc hoảng sợ trước “bi kịch thời gian” với nhà thơ, cũng bị triệt tiêu cái chất vui vô tư tự nhiôn ở đoạn thớ trước. Có gì như vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng sau khi khi nhà thơ đã cảm nhận được cái hữu hạn của một đời người đối mặt với cái vô hạn của thời gian thiên nhiên, trời đất.,.
c. Đoạn thơ còn lại (từ câu 31 đến hết bài) cho thấy tình yêu cuồng nhiệt tột cùng của nhà thơ đôi với cuộc sống. Ông gắn bó với con người, với cuộc đời một cách máu thịt, mê say; gắn bó vớí cả tâm hồn bằng mọi giác quan và những hành động cụ thể đầy tính nhân văn.
4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu của đoạn thơ cuối bài. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
Bài thơ có nhiều hình ảnh mới mẻ, độc đáo, đậm chất Xuân Diệu nhiều hình ảnh khỏe khoắn nồng nàn, nhiều ngôn từ đậm màu cảm giác, xúc giác rạo rực: ôm cả sự sống, riết máy đưa và giữ lượn, say cánh bướm với tình yêu; thâu trong một cái hôn nhiều, chếnh choáng mùi thơm, đã đẩy ánh sáng, no nê thanh sác;ta muốn cắn vào ngươi. Lối điệp từ, điệp cú pháp được sử dụng ở đây cũng rất thành công. Cộng vào đó là hình thức đảo ngữ tác động thẳng vào tri giác người đọc. Nhịp điệu của các câu thơ cũng có sợ biến đổi phong phú thể hiện được khi thì cảm giác choáng ngợp hạnh phúc, khi thì cảm giác lo lắng, băn khoăn, khi thì cảm gíác luống cuống tiếc rẻ hay nôn nóng phấn chấn. Những biện pháp nghệ thuật ấy nhằm thể hiện trọn vẹn một niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say của nhà thơ.
Hướng dẫn giải
1. Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.
Bài thơ cố thể chia ra làm 3 đoạn:
2. Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian?
Mở đầu bài thơ là một ý muôn táo bạo, ngông cuồng:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muôn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Bốn câu trên như một lời đề từ của bài thơ đã bộc lộ một khao khát lớn của Xuân Diệu. Nhà thơ “muốn tắt nắng đi”, “muốn buộc gió lại’ nói một cách khác là muôn níu giữ thời gian. Ý muốn này la lùng và cháy bỏng xiết bao! Phải chăng chỉ vì hồn thơ quá tha thiết với cuộc sống trần thế đầy hương màu, đang lo lắng trước sự “sao dời vật đổi 1 của đất trời của cảnh vật... nên có ý muôn ôm giữ tất cả để được còn nguyên vẹn mãi cái vẻ đẹp vốn có của nó. Nhà thơ sợ mất nó, cũngl chẳng khác gì một người có báu vật luôn luôn lo sợ là báu vật kia sễl tuột khỏi tay mình.
thứ hương màu của hạnh phúc và tình yêu, đó là:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Đúng là một khu vườn xuân rộng mở với đủ đầy những cảnh sắc mê li, với những điệp ngữ, này đây”, "này đây” dồn dập, đặt song song nhau như sắp sẵn, như dọn bày ra những món ăn tinh thần với tất cả sắc hương dầy quyến rũ của cuộc đời. Với trái tim sôi sục ,với đôi mắt “xanh non” háo hức, Xuân Diệu đã phát hiện ra một không gian tươi thắm; tràn ngập lá nõn, hoa thơm, trái ngọt và cả ánh sáng của tình yêu. Đó chính là một thiên đường có thật ngay trong cuộc sống xung quanh chúng ta. Ý thơ mới, lời thơ mới, với những hình ảnh trùng điệp, cho thấy trong mắt thi nhân, mọi thứ đều mới lạ và hấp dẫn đang mời gọi rủ rê:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Câu thơ thật đẹp, đầy tính sáng tạo. Ánh sáng của buổi sớm mai như phát tiết từ đôi mắt tuyệt vời của cô gái vừa tỉnh giấc nồng, chớp hàng mi, mở bừng ra muôn ánh hào quang rạng rỡ. Hình ảnh này được nhà thơ tả lại trong một bài thơ khác: “Rặng mi dài xao động ánh dương vui” cũng đẹp không kém.
Đặc biệt hơn, sau đó là một so sánh tuyệt vời rất mực Xuân Diệu:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Hình ảnh so sánh vừa táo bạo vừa thiên về cảm giác. Nếu liên kết hình ảnh này với hình ảnh “tuần tháng mật” ở bên trên, người đọc sẽ thấy ngay lối so sánh này đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, với con người, niềm khát khao về tình yêu của thi nhân. Đến đây, người đọc tưởng như có thể hình dung được bóng dáng thi nhân đang “say sưa”, “chếnh choáng” trước vẻ đẹp “no nê”, “đủ đầy” của mùa xuân trăm màu trăm sắc.
Nhưng sự sung sướng ấy không trọn vẹn, đúng như lời thi nhân đã tâm sự: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm khéo đặt giữa câu thơ nẩy khiến ta hình dung bước chần của chàng trai trẻ Xuân Diệu như bất chợt khựng lại giữa khu vườn xuân sắc, khi nhận ra giới hạn ngắn ngủi của cuộc đời:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Ba câu thơ trên làm thành một cảm nhận về thời gian của nhà thơ.
3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
a. Cảnh vật miêu tả trong đoạn thơ (từ câu 5 đến câu 11) hiện ra đầy sức bấp dẫn, đầy sức quyến rũ của một khu vườn xuân rộng mở gợi đủ hương màu của hạnh phúc và tình yêu: trong cặp mắt xanh non của Xuân Diệu cả trời xanh, hoa lá, bướm ong... tất cả đều trinh nguyên, mới mẻ, tươi tắn và mê say. Có một thiên đường hiển, hiện ngay trên mặt đất này chẳng cần phải nhọc công kiếm tìm ổ một chốn mông lung, huyền ảo nào. Những điệp ngữ này đây, này đây dồn dập thể hiện sự giàu có bất tận của thiên nhiên. Cả một thiên đường tuyệt diệu ở cuộc đời thực, cuộc đời trần thế này đây được cảm nhận vồ vập bởi trái tim đa cảm của nhà thơ. Lời thơ là một chuỗi tiếng reo vui
b. Cảnh vật được miêu tá trong đoạn thơ từ câu 24 đến câu 29), lại khác hẳn. Tất cá đều rớm vị chia phôi, than tiễn biệt, hờn xa cách, sợ tàn phai... Thiên nhiên, cảnh vật như cũng có cùng tâm trạng luyến tiếc hoảng sợ trước “bi kịch thời gian” với nhà thơ, cũng bị triệt tiêu cái chất vui vô tư tự nhiôn ở đoạn thớ trước. Có gì như vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng sau khi khi nhà thơ đã cảm nhận được cái hữu hạn của một đời người đối mặt với cái vô hạn của thời gian thiên nhiên, trời đất.,.
c. Đoạn thơ còn lại (từ câu 31 đến hết bài) cho thấy tình yêu cuồng nhiệt tột cùng của nhà thơ đôi với cuộc sống. Ông gắn bó với con người, với cuộc đời một cách máu thịt, mê say; gắn bó vớí cả tâm hồn bằng mọi giác quan và những hành động cụ thể đầy tính nhân văn.
4. Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu của đoạn thơ cuối bài. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?
Bài thơ có nhiều hình ảnh mới mẻ, độc đáo, đậm chất Xuân Diệu nhiều hình ảnh khỏe khoắn nồng nàn, nhiều ngôn từ đậm màu cảm giác, xúc giác rạo rực: ôm cả sự sống, riết máy đưa và giữ lượn, say cánh bướm với tình yêu; thâu trong một cái hôn nhiều, chếnh choáng mùi thơm, đã đẩy ánh sáng, no nê thanh sác;ta muốn cắn vào ngươi. Lối điệp từ, điệp cú pháp được sử dụng ở đây cũng rất thành công. Cộng vào đó là hình thức đảo ngữ tác động thẳng vào tri giác người đọc. Nhịp điệu của các câu thơ cũng có sợ biến đổi phong phú thể hiện được khi thì cảm giác choáng ngợp hạnh phúc, khi thì cảm giác lo lắng, băn khoăn, khi thì cảm gíác luống cuống tiếc rẻ hay nôn nóng phấn chấn. Những biện pháp nghệ thuật ấy nhằm thể hiện trọn vẹn một niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say của nhà thơ.
Gửi 6 năm trước