Bác bỏ là dùng lí lẽ và chứng cứ để phê phán, gạt bỏ những quan điểm , ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác... từ đó nêu ý kiến đúng của bình để thuyết phục người nghe (người đọc )
II) CÁCH BÁC Bỏ
1. Đọc các đoạn trích: của Đinh Gia Trinh
của Nguyễn An Ninh
của Nguyễn Khắc Viện và trả lời các câu hỏi.
a. Trong đoạn trích a, ông Đinh Gia Trinh bác bỏ, không chấp nhận cách lập luận thiếu tính khoa học, nghĩa là suy diễn một cách chủ quan của ông Nguyễn Bách Khoa. Tác giả chỉ ra sự suy diễn vô cán cứ của ông Nguyễn Bách Khoa khi giảng giải, phân tích lời nói và những câu thơ của Nguyễn Du. Ở đoạn này, nghệ thuật bác bỏ khá đặc sắc biểu hiện ở cách diễn đạt (phối hợp câu tường thuật, câu cảm thán, câu hỏi tu từ..., ở cách so sánh với những thi sĩ nước ngoài từng có trí tưởng tượng kì dị, tương tự trí tưởng tượng của Nguyễn Du. Như vậy, nhờ thế ông Đinh Gia Trinh đã thành công, đầy sức thuyết phục trong việc bác bỏ ý kiến của ông Nguyễn Bách Khoa cho rằng “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh”.
b. Trong đoạn trích b, Nguyễn An Ninh đã bác bỏ luận cứ lệch lạc của nhiều người là: “Nhiều đồng bào chúng ta để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn”. Thái độ từ bỏ tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) bắt nguồn từ nhiều căn cứ. Trong đó, việc than phiền tiếng nước mình nghèo chỉ là một căn cứ. Nguyễn An Ninh vừa trực tiếp phê phán rằng: “Lời trách cứ này không có cơ sở nào cả”, vừa phân tích bằng lí lẽ và dẫn chứng, rồi truy tìm nguyên nhân của luận cứ sai lệch là “Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?” để phủ nhận luận cứ lệch lạc trên.
c. Trong đoạn trích c, ông Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra luận điểm sai lầm của người khác: “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!” rồi bác bỏ luận điểm đó bằng cách đưa ra những dẫn chứng cụ thể, và phân tích rõ tác hại ghê gớm của việc hút thuốc lá.
2. Cách thức bác bỏ
Có thể bác bỏ một luận điểm, luận cứ hoặc cách lập luận bằng cách nêu tác hại, chỉ ra nguyên nhân hoặc phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác... của luận điểm, luận cứ, lập luận ấy.
Khi bác bỏ, cần diễn đạt rành mạch, sáng sủa, uyển chuyển để người có quan điểm, ý kiến sai lệch và người nghe (người đọc) dễ chấp nhận, tin theo.
LUYỆN TẬP
Bài tập 1
a. NguyễnDữbác bỏ một ý nghĩ sai lệch (Cứng quá thì gãy, từ đó mà đổi cứng ra mềm), Nguyễn Đình Thi bác bỏ một quan điểm sai lầm (thơ là những lời đẹp).
b. Cách bậc bỏ và giọng văn
Nguyễn Dữ dùng lí lẽ và dẫn chứng để trực tiếp bác bỏ với 1 giọng vãn dứt khoát, chắc nịch.
Nguyễn Đình Thi dùng dẫn chứng để bác bỏ luận điểm vớii giọng văn nhẹ nhàng, tế nhị.
c .Rút thêm bài học: khi bác bỏ bất cứ điều gì, chúng ta cần lựa Ễ chọn mức độ bác bỏ và giọng văn phù hợp với yêu cầu.
Bài tập 2
Đây là một quan niệm sai lệch không đúng đắn về kết bạn trong I học sinh.
Có thể dùng cách: tìm rõ nguyên nhân, phân tích kĩ lưỡng táci hại của quan niệm sai đó để bác bỏ, cuối cùng đưa ra suy nghĩ và i hành động đúng đắn, mọi người đều chấp nhận được.
Để thuyết phục bạn có quan điểm sai lầm một cách hiệu quả nên dùng giọng văn nhẹ nhàng, tế nhị, êm ái, dễ nghe.
Hướng dẫn giải
I) MỤC ĐÍCH, YÊU CẨU CỦA THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ
Bác bỏ là dùng lí lẽ và chứng cứ để phê phán, gạt bỏ những quan điểm , ý kiến sai lệch hoặc thiếu chính xác... từ đó nêu ý kiến đúng của bình để thuyết phục người nghe (người đọc )
II) CÁCH BÁC Bỏ
1. Đọc các đoạn trích: của Đinh Gia Trinh
của Nguyễn An Ninh
của Nguyễn Khắc Viện và trả lời các câu hỏi.
a. Trong đoạn trích a, ông Đinh Gia Trinh bác bỏ, không chấp nhận cách lập luận thiếu tính khoa học, nghĩa là suy diễn một cách chủ quan của ông Nguyễn Bách Khoa. Tác giả chỉ ra sự suy diễn vô cán cứ của ông Nguyễn Bách Khoa khi giảng giải, phân tích lời nói và những câu thơ của Nguyễn Du. Ở đoạn này, nghệ thuật bác bỏ khá đặc sắc biểu hiện ở cách diễn đạt (phối hợp câu tường thuật, câu cảm thán, câu hỏi tu từ..., ở cách so sánh với những thi sĩ nước ngoài từng có trí tưởng tượng kì dị, tương tự trí tưởng tượng của Nguyễn Du. Như vậy, nhờ thế ông Đinh Gia Trinh đã thành công, đầy sức thuyết phục trong việc bác bỏ ý kiến của ông Nguyễn Bách Khoa cho rằng “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh”.
b. Trong đoạn trích b, Nguyễn An Ninh đã bác bỏ luận cứ lệch lạc của nhiều người là: “Nhiều đồng bào chúng ta để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn”. Thái độ từ bỏ tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) bắt nguồn từ nhiều căn cứ. Trong đó, việc than phiền tiếng nước mình nghèo chỉ là một căn cứ. Nguyễn An Ninh vừa trực tiếp phê phán rằng: “Lời trách cứ này không có cơ sở nào cả”, vừa phân tích bằng lí lẽ và dẫn chứng, rồi truy tìm nguyên nhân của luận cứ sai lệch là “Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?” để phủ nhận luận cứ lệch lạc trên.
c. Trong đoạn trích c, ông Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra luận điểm sai lầm của người khác: “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!” rồi bác bỏ luận điểm đó bằng cách đưa ra những dẫn chứng cụ thể, và phân tích rõ tác hại ghê gớm của việc hút thuốc lá.
2. Cách thức bác bỏ
Có thể bác bỏ một luận điểm, luận cứ hoặc cách lập luận bằng cách nêu tác hại, chỉ ra nguyên nhân hoặc phân tích những khía cạnh sai lệch, thiếu chính xác... của luận điểm, luận cứ, lập luận ấy.
Khi bác bỏ, cần diễn đạt rành mạch, sáng sủa, uyển chuyển để người có quan điểm, ý kiến sai lệch và người nghe (người đọc) dễ chấp nhận, tin theo.
LUYỆN TẬP
Bài tập 1
a. Nguyễn Dữ bác bỏ một ý nghĩ sai lệch (Cứng quá thì gãy, từ đó mà đổi cứng ra mềm), Nguyễn Đình Thi bác bỏ một quan điểm sai lầm (thơ là những lời đẹp).
b. Cách bậc bỏ và giọng văn
c .Rút thêm bài học: khi bác bỏ bất cứ điều gì, chúng ta cần lựa Ễ chọn mức độ bác bỏ và giọng văn phù hợp với yêu cầu.
Bài tập 2
Gửi 6 năm trước