Câu 1: Theo văn bản, bài thơ chia thành 4 đoạn. Nêu ý chính của mỗi đoạn và chỉ ra mạch liên kết giữa các đoạn?
Nhìn trên văn bản, bài thơ được chia làm bốn đoạn:
1. Khung cảnh chiến trường Tây Tiến với núi rừng hiểm trở, vừa hùng vĩ, dừ dội vừa thơ mộng, trữ tình.
2. Cảnh tài hoa, tình tứ của đêm liên hoan và cảnh sông nước Châu Mộc.
3. Chân dung người lính Tây Tiến.
4. Hồn vẫn không rời "TâyTiến mùa xuân ấy"
Cấu trúc nghệ thuật: Bài thơ là một nỗi nhớ. Nhớ về Tây Tiến, thi sĩ nhớ khung cảnh chiến trường xưa dữ dội, ác liệt nhưng lại rất đỗi thơ mộng, trữ tình với những chặng đường mình đã hành quân qua, rồi mới nhớ đến đồng đội cũ, người lính Tây Tiến xưa. Cũng có thể hiểu là thi sĩ nhớ đồng đội, nhớ chính mình xưa trước... ở đây, Quang Dùng đã tạo ra một cái nền hùng vĩ và diễm lệ của núi rừng Tây Bắc để người lính xuất hiện với một tư thế xứng đáng, phù hợp với nó, một tâm hồn rất mực lãng mạn và tài hoa.
Câu 2: Nét đặc sắc của bức tranh thiên nhiên trong đoạn thơ thứ nhất và hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ như thế nào?
Hình ảnh dữ dội của núi rừng hiểm trở, hoang vu, đầy bí mật với núi cao, sông sâu, rừng dày, nhiều thú dữ, với thác gầm thét, với cọp trêu người. Bên cạnh đó là hình ảnh nhẹ nhàng, tươi mát của mái nhà ai tỏ mờ, thấp thoáng trong màn mưa mỏng ở lưng chừng núi, là một bản làng với "cơm lên khói", với "mùa em thơm nếp xôi". Cảnh thực, những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến ngày nào đã được khúc xạ qua tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính gốc Hà Nội và đã được thi sĩ thể hiện thật đặc sắc với nhiều thủ pháp nghệ thuật tài tình: đối lập, nhân hoá, cường điệu:
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi (tươi mát, nhẹ nhàng)
Súng ngửi trời, cọp trêu ngươi,... nhân hóa, cường điệu.
Câu 3: Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác với những vẻ đẹp của con người về thiên nhiên miền Tây khác với đoạn thơ thứ nhất. Hãy phân tích.
Cành tượng mĩ lệ, duyên dáng, dầy chất thơ, tuơi mát, nhọ nhàng được thể hiện bàng những nét mèm mại, tình tế và tồi hoa với hai cánh:
Cảnh đêm liên hoan quân dân nơi biên giới và cảnh sông nước Mộc Châu huyền ảo với hình ảnh uyển chuyển của một cô gái Thái xuôi thuyền độc mộc.
Nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng lại nhớ đến cả hai bức tranh này, vì đó là hai nét làm nên một vẻ đẹp cùa khung cảnh chiến trường Tây Tiến gắn bó không rời với cuộc đời chiến sĩ của ông trong một thời kì vệ quốc ác liệt nhất.
Câu 4: Hình ảnh người lính Tây Tiến được lặp lại trong đoạn thơ thứ ba. Hãy làm rõ vẻ đẹp lãng mạn và tính chất bi tráng của hình ảnh người lính.
Phân tích chân dung người lính Tây Tiến.
Đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến đã xuất hiện trong vẻ đẹp đầy bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Đó là những người lính tiểu tư sản học sinh Hà Nội lên đường đi đánh 1 giặc, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi chiến đấu giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu. Những gương mặt xanh xao vì đóikhát, vì sốt rét ấy đã trở thành "dữ oai hùm" nhưng vẫn sang trọng ở những giấc mơ lãng mạn, rạo rực, khao khát yêu đương của người thanh niên Hà thành thanh lịch "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Khi ra di, họ hiên ngang lẫm liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng "Chiến trường đi chẳng tiếcđời xanh". Khi hi sinh dù không có đến cả manh chiếu che thân nhưng trong mắt thi sĩ, họ được khâm liệm trong những tấm "áo bào" và có cả tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã oai hùng đưa tiễn vong linh:
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...
Chỉ với tám câu thơ, Quang Dũng đã chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên một bức tượng dài bất tử, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn binh, của một thời đánh giặc không thể nào quên.
Câu 5: Ở đoạn cuối, nỗi nhớ Tây Tiến được diễn tả như thế nào? Vì sao nhà thơ viết: “Hồn về sầm Nữa chẳng về xuôi"?
Bài thơ được khép lại bằng bốn câu thơ thể hiện lòng quyết tâm thực hiện lí tưởng, thấm nhuần tinh thần một đi không trở lại của người lính Tây Tiến thời ấy:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Câu thơ cuối bài: Hồn về sầm Nứa, chẳng về xuôi thể hiện khía cạnh ấy trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến mùa xuân ấy.
LUYỆN TẬP
Bài 1:
- Bút pháp của Quang Dũng trong bài thơ này là bút pháp lãng mạn, trái với Chính Hữu, đã dùng bút pháp tả thực trong bài thơ Đồng chí cùng thời.
Bởi vậy, nói về cái áo của người lính, Chính Hữu viết "Áo anh rách vai" nhưng với Quang Dũng thì "Áo bào thay chiểu anh về đất"...
- Bài thơ Tây Tiến được viết theo bút pháp lãng mạn. Bên cạnh khuynh hướng tô đậm những cái khác thường, nhà thơ lại sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập nhằm tác động mãnh liệt vào cảm quan người thưởng thức. Chính những cái khác thường, những cái đặc biệt ấy đã dễ dàng khêu gợi trí tưởng tượng, cảm hứng lãng mạn của người đọc để có sự đồng cảm sâu xa.
Bài 2:
BÌNH GIẢNG BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất trong những sáng tác của Quang Dũng. Nói đến Quang Dũng, trước hết mọi người nhắc đến Tây Tiến. Tây Tiến được viết ra vào năm 1948 với những cảm nghĩ và kỉ niệm xúc động bồi hồi về đoàn quân - đơn vị được thành lập đầu năm 1947. Đoàn quân Tây Tiến có nhiệm vụ cùng với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Lào - Việt và đánh Pháp ởvùng Thượng Lào. Địa bàn hoạt động rộng. Bộ đội Tây Tiến chủ yếu là lớp thanh niên lao động chân tay và trí ốc của Hà Nội. Sự tập hợp lực lượng này có ý nghĩa khi tìm hiểu về người lính Tây Tiến được miêu tả trong tác phẩm. Đoàn quân Tây Tiến đánh thắng nhiều trận. Địa bàn mở rộng ởnhiều vùng. Cứ đọc bài thơ đã thấy nhiều địa danh từ rừng núi Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch... đến những miền quê đẹp như Châu Mộc, Mai Châu.
Quang Dũng viết bài Tây Tiến khi xa đơn vị cũ một thời gian. Những năm thống gắn bó với Tây Tiến, tình đồng đội, đồng chí thiết tha, tình quân dân mặn nồng và cả những miền đất đã đi qua của những chặng đường hành quân... Tất cả đã trở lại trong những kỉ niệm, làm sống lại hồn thơ. Kỉ niệm ấy gắn với một thời trai trẻ của nhà thơ và tạo nên bao nuôi tiếc và nhà thơ không tránh khỏi xúc động như thốt, như kêu lên để tưởng nhớ lại một kỉ niệm sâu sắc đã đi qua trong cuộc đời:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lèn khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Núi rừng được khắc họa với bút pháp lãng mạn. Thiên nhiên vừa dữ dội lại vừa hùng vĩ như đang thử thách với con người qua từng chặng đường hành quân. Chốn rừng núi ấy được diễn tả vừa như xa xôi, mờ ảo, chơi vơi trong kĩ niệm nhưng lại rất hiện thực như khung cảnh mà người lính Tây Tiến đang trực tiếp trải qua trong hiện tại. Thiên nhiên hiểm trở mà đẹp. Tác giả như tô đậm mặt gian khổ của những chặng đường hành quân, của những thử thách nhưng không ngại ngùng, lo sợ. Khổ đầu của bài thơ diễn tả khá thành công địa bàn rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến hoạt động với trùng điệp rừng núi cao. Có câu thơ hun hút đi lên mãi với chiều cao của rừng núi: "Dốc lèn khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Có câu thơ như gấp khúc giữa chiều cao và chiều sâu: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Những hình ảnh của rừng núi hiểm trở xen lẫn với hình ảnh đẹp của làng quê bình dị: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Gợi thương gợi nhớ nhiều nhất vẫn là những ki niệm của bộ dội với nhân dân. Tây Tiến trở về êm đẹp trong hương thơm và khói nếp ấm no của ngày mùa:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Mạch thơ chuyển sang phần II và đi sâu vào những kỉ niệm của tình quân dân thắm thiết trong những ngày đóng quân ở các vùng quê với những đêm hội đuốc hoa, với điệu khèn gợi cảm và dáng người mềm mại trên độc mộc lặng lẽ xuôi dòng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lèn man diệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Quang Dũng đã miêu tả được niềm vui và tâm hồn của người lính trẻ như bốc men say trong hội vui thắm thiết tình quân dân với âm nhạc, ánh sáng và những cô gái đẹp. Đoạn thơ như làm dịu hẳn không khí dữ dội của núi rừng hiểm trở mà chan hòa trong hình ảnh đẹp của bản làng. Quang Dũng 1 đã miêu tả được đặc điểm của mọi miền đất quê hương đẹp, nên thơ, giàu tình nghĩa. Ai đã một lần đến mà không khỏi xúc động thương nhớ! Mảnh đất xa rồi mà hồn còn như gửi lại. Bài thơ khơi sâu vào những miền kỉ niệm đẹp nhất và cũng mờ ảo lung linh nhất của cái thực và mơ, của cảnh vật quyến luyến và hồn vương vấn:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bển bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Mấy từ "hồn lau nẻo bến bờ" gợi lên biết bao xúc dộng. Ai đã từng sống ở miền rừng núi và thấy những triền lau lất phất bông xám bạc theo gió đẩy đưa mới càng thấy hết ý nghĩa của câụ thơ. Trong hơi lau như có một cáiquyến luyến, cảnh vật như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Quang Dũng không chỉ miêu tả cái đẹp mà còn gợi lên phần thiêng liêng của cảnh vật. Bài thơ dường như đã nói được nhiều về con người và cảnh vật nhưng đến đây thì đoàn quân Tây Tiến mới xuất đầu lộ diện với dáng vẻ đặc biệt:
Tây Tiến đoàn binh khộng mọc tóc
Quân xanh màu lá dừ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hình ảnh của người chiến binh được miêu tả trong giai đoạn này qua nhiều bài thơ còn nhiều vất vả, gian truân. Sốt rét là căn bệnh hiểm nguy đối với các chiến sĩ. Tố Hữu đã từng nói đến hình ảnh anh Vệ quốc quân: "Giọt giọt mổ hôi rơi, Trên má anh vàng nghệ (Cá nước). Chính Hữu tả trực tiếp căn bệnh này: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi (Đồng chi). Đơn vị Tây Tiến ở giữa một vùng sốt rét hoành hành nên tóc rụng, da xanh bùng. Quang Dũng không muốn chỉ tả vẻ yếu ớt về hình thức mà muốn nói đến sức mạnh bên trong, đến dũng khí của đoàn quân, vẫn mạnh mẽ, vẫn dữ oai hùm. Những người lính Táy Tiến này phần nhiều là những thanh niên Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu và nén lại bao nhiêu thương nhớ về hậu phương. Nếu như người lính trong thơ Hồng Nguyên nhớ về hình ảnh người vợ "mòn chăn bên cối gạo canh khuya" thì người chíén sĩ Tây Tiến lại có cách nhớ thương riêng của mình:
Mắt trừng gừi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Một thời những câu thơ như thế này rất khó được chấp nhận và thưởng bị quy kết là rơi vào căn bệnh mơ mộng tiểu tư sản. Sao lại có thể ngăn cản được tâm hồn người lính mơ đến hình ảnh một người con gái ở nơi xa ? Tinh cảm ấy không hề làm cho họ mềm yếu, nản lòng trong công việc. Quang Dũng đã miêu tả phẩm chất của người chiến sĩ Tây Tiến với những câu thơ đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh.
Phẩm chất cao đẹp và thử thách lớn lao nhất đối với người lính là ý thức sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Và cũng không chỉ là ý thức, mà ý thức đã biểu hiện trong hành động thực tế. Nhiều người đă hi sinh, những nấm mồ nơi viễn xứ không làm họ lo sợ. Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến nói nhiều đến cái chết nhưng không gây xót xa, đau đớn mà còn tạo được sự cảm phục.
Cuộc đời chinh chiến và cái chết đối với người lính được miêu tả rất thanh thản, nhẹ nhàng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Nhưng rồi cái chết nào chẳng đau đớn, xót xa. Câu thơ: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" như điệu kèn bi tráng nhớ tiếc và ngợi ca tinh thần của người liệt sĩ. Trong thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp, Tây Tiến là bài thơ sớm nói đến cái chết, đến sự hi sinh trong chiến tranh mà không bi lụy.
Bài thơ khép lại với những câu thơ đẹp:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Gian khổ khó khăn nhiều nhưng không một ai thoái thác trách nhiệm. Với họ, một ra đi là không trở lại, ra đi phải giành lấy phần chiến thắng.
Tây Tiến là một sáng tác thơ có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở và vẻ đẹp bình dị, nên thơ cua cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ. hoà hợp với chất trữu tình nhẹ nhàng, mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thở giàu nhạc điệu của cuộc sống và nhạc điệu của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang theo một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển. Khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi cảm, khi dồn dập trong những tiết tấu mạnh, Xuân Diệu cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng. Tây Tiến được viết theo cảm hứng lãng mạn. Những yếu tố cường điệu, phóng đại làm cho cái phi thường, cái đẹp không rơi vào sự giả tạo chỉ tô đậm thêm vẻ đẹp của hình tượng theo phong cách lâng mạn. Bài thơ hấp đẫn và góp phần ghi lại hình ảnh đẹp của người chiến sĩ quân đội trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Hướng dẫn giải
Câu 1: Theo văn bản, bài thơ chia thành 4 đoạn. Nêu ý chính của mỗi đoạn và chỉ ra mạch liên kết giữa các đoạn?
Nhìn trên văn bản, bài thơ được chia làm bốn đoạn:
1. Khung cảnh chiến trường Tây Tiến với núi rừng hiểm trở, vừa hùng vĩ, dừ dội vừa thơ mộng, trữ tình.
2. Cảnh tài hoa, tình tứ của đêm liên hoan và cảnh sông nước Châu Mộc.
3. Chân dung người lính Tây Tiến.
4. Hồn vẫn không rời "TâyTiến mùa xuân ấy"
Cấu trúc nghệ thuật: Bài thơ là một nỗi nhớ. Nhớ về Tây Tiến, thi sĩ nhớ khung cảnh chiến trường xưa dữ dội, ác liệt nhưng lại rất đỗi thơ mộng, trữ tình với những chặng đường mình đã hành quân qua, rồi mới nhớ đến đồng đội cũ, người lính Tây Tiến xưa. Cũng có thể hiểu là thi sĩ nhớ đồng đội, nhớ chính mình xưa trước... ở đây, Quang Dùng đã tạo ra một cái nền hùng vĩ và diễm lệ của núi rừng Tây Bắc để người lính xuất hiện với một tư thế xứng đáng, phù hợp với nó, một tâm hồn rất mực lãng mạn và tài hoa.
Câu 2: Nét đặc sắc của bức tranh thiên nhiên trong đoạn thơ thứ nhất và hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ như thế nào?
Hình ảnh dữ dội của núi rừng hiểm trở, hoang vu, đầy bí mật với núi cao, sông sâu, rừng dày, nhiều thú dữ, với thác gầm thét, với cọp trêu người. Bên cạnh đó là hình ảnh nhẹ nhàng, tươi mát của mái nhà ai tỏ mờ, thấp thoáng trong màn mưa mỏng ở lưng chừng núi, là một bản làng với "cơm lên khói", với "mùa em thơm nếp xôi". Cảnh thực, những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến ngày nào đã được khúc xạ qua tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính gốc Hà Nội và đã được thi sĩ thể hiện thật đặc sắc với nhiều thủ pháp nghệ thuật tài tình: đối lập, nhân hoá, cường điệu:
- Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người (hoang dại, dữ dội)
- Nhớ ôi Táy Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi (tươi mát, nhẹ nhàng)
Súng ngửi trời, cọp trêu ngươi,... nhân hóa, cường điệu.
Câu 3: Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác với những vẻ đẹp của con người về thiên nhiên miền Tây khác với đoạn thơ thứ nhất. Hãy phân tích.
Cành tượng mĩ lệ, duyên dáng, dầy chất thơ, tuơi mát, nhọ nhàng được thể hiện bàng những nét mèm mại, tình tế và tồi hoa với hai cánh:
Cảnh đêm liên hoan quân dân nơi biên giới và cảnh sông nước Mộc Châu huyền ảo với hình ảnh uyển chuyển của một cô gái Thái xuôi thuyền độc mộc.
Nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng lại nhớ đến cả hai bức tranh này, vì đó là hai nét làm nên một vẻ đẹp cùa khung cảnh chiến trường Tây Tiến gắn bó không rời với cuộc đời chiến sĩ của ông trong một thời kì vệ quốc ác liệt nhất.
Câu 4: Hình ảnh người lính Tây Tiến được lặp lại trong đoạn thơ thứ ba. Hãy làm rõ vẻ đẹp lãng mạn và tính chất bi tráng của hình ảnh người lính.
Phân tích chân dung người lính Tây Tiến.
Đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến đã xuất hiện trong vẻ đẹp đầy bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Đó là những người lính tiểu tư sản học sinh Hà Nội lên đường đi đánh 1 giặc, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi chiến đấu giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu. Những gương mặt xanh xao vì đói khát, vì sốt rét ấy đã trở thành "dữ oai hùm" nhưng vẫn sang trọng ở những giấc mơ lãng mạn, rạo rực, khao khát yêu đương của người thanh niên Hà thành thanh lịch "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Khi ra di, họ hiên ngang lẫm liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Khi hi sinh dù không có đến cả manh chiếu che thân nhưng trong mắt thi sĩ, họ được khâm liệm trong những tấm "áo bào" và có cả tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã oai hùng đưa tiễn vong linh:
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...
Chỉ với tám câu thơ, Quang Dũng đã chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên một bức tượng dài bất tử, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn binh, của một thời đánh giặc không thể nào quên.
Câu 5: Ở đoạn cuối, nỗi nhớ Tây Tiến được diễn tả như thế nào? Vì sao nhà thơ viết: “Hồn về sầm Nữa chẳng về xuôi"?
Bài thơ được khép lại bằng bốn câu thơ thể hiện lòng quyết tâm thực hiện lí tưởng, thấm nhuần tinh thần một đi không trở lại của người lính Tây Tiến thời ấy:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Câu thơ cuối bài: Hồn về sầm Nứa, chẳng về xuôi thể hiện khía cạnh ấy trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến mùa xuân ấy.
LUYỆN TẬP
Bài 1:
- Bút pháp của Quang Dũng trong bài thơ này là bút pháp lãng mạn, trái với Chính Hữu, đã dùng bút pháp tả thực trong bài thơ Đồng chí cùng thời.
Bởi vậy, nói về cái áo của người lính, Chính Hữu viết "Áo anh rách vai" nhưng với Quang Dũng thì "Áo bào thay chiểu anh về đất"...
- Bài thơ Tây Tiến được viết theo bút pháp lãng mạn. Bên cạnh khuynh hướng tô đậm những cái khác thường, nhà thơ lại sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập nhằm tác động mãnh liệt vào cảm quan người thưởng thức. Chính những cái khác thường, những cái đặc biệt ấy đã dễ dàng khêu gợi trí tưởng tượng, cảm hứng lãng mạn của người đọc để có sự đồng cảm sâu xa.
Bài 2:
BÌNH GIẢNG BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất trong những sáng tác của Quang Dũng. Nói đến Quang Dũng, trước hết mọi người nhắc đến Tây Tiến. Tây Tiến được viết ra vào năm 1948 với những cảm nghĩ và kỉ niệm xúc động bồi hồi về đoàn quân - đơn vị được thành lập đầu năm 1947. Đoàn quân Tây Tiến có nhiệm vụ cùng với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Lào - Việt và đánh Pháp ở vùng Thượng Lào. Địa bàn hoạt động rộng. Bộ đội Tây Tiến chủ yếu là lớp thanh niên lao động chân tay và trí ốc của Hà Nội. Sự tập hợp lực lượng này có ý nghĩa khi tìm hiểu về người lính Tây Tiến được miêu tả trong tác phẩm. Đoàn quân Tây Tiến đánh thắng nhiều trận. Địa bàn mở rộng ở nhiều vùng. Cứ đọc bài thơ đã thấy nhiều địa danh từ rừng núi Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch... đến những miền quê đẹp như Châu Mộc, Mai Châu.
Quang Dũng viết bài Tây Tiến khi xa đơn vị cũ một thời gian. Những năm thống gắn bó với Tây Tiến, tình đồng đội, đồng chí thiết tha, tình quân dân mặn nồng và cả những miền đất đã đi qua của những chặng đường hành quân... Tất cả đã trở lại trong những kỉ niệm, làm sống lại hồn thơ. Kỉ niệm ấy gắn với một thời trai trẻ của nhà thơ và tạo nên bao nuôi tiếc và nhà thơ không tránh khỏi xúc động như thốt, như kêu lên để tưởng nhớ lại một kỉ niệm sâu sắc đã đi qua trong cuộc đời:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lèn khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Núi rừng được khắc họa với bút pháp lãng mạn. Thiên nhiên vừa dữ dội lại vừa hùng vĩ như đang thử thách với con người qua từng chặng đường hành quân. Chốn rừng núi ấy được diễn tả vừa như xa xôi, mờ ảo, chơi vơi trong kĩ niệm nhưng lại rất hiện thực như khung cảnh mà người lính Tây Tiến đang trực tiếp trải qua trong hiện tại. Thiên nhiên hiểm trở mà đẹp. Tác giả như tô đậm mặt gian khổ của những chặng đường hành quân, của những thử thách nhưng không ngại ngùng, lo sợ. Khổ đầu của bài thơ diễn tả khá thành công địa bàn rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến hoạt động với trùng điệp rừng núi cao. Có câu thơ hun hút đi lên mãi với chiều cao của rừng núi: "Dốc lèn khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Có câu thơ như gấp khúc giữa chiều cao và chiều sâu: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Những hình ảnh của rừng núi hiểm trở xen lẫn với hình ảnh đẹp của làng quê bình dị: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Gợi thương gợi nhớ nhiều nhất vẫn là những ki niệm của bộ dội với nhân dân. Tây Tiến trở về êm đẹp trong hương thơm và khói nếp ấm no của ngày mùa:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Mạch thơ chuyển sang phần II và đi sâu vào những kỉ niệm của tình quân dân thắm thiết trong những ngày đóng quân ở các vùng quê với những đêm hội đuốc hoa, với điệu khèn gợi cảm và dáng người mềm mại trên độc mộc lặng lẽ xuôi dòng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lèn man diệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Quang Dũng đã miêu tả được niềm vui và tâm hồn của người lính trẻ như bốc men say trong hội vui thắm thiết tình quân dân với âm nhạc, ánh sáng và những cô gái đẹp. Đoạn thơ như làm dịu hẳn không khí dữ dội của núi rừng hiểm trở mà chan hòa trong hình ảnh đẹp của bản làng. Quang Dũng 1 đã miêu tả được đặc điểm của mọi miền đất quê hương đẹp, nên thơ, giàu tình nghĩa. Ai đã một lần đến mà không khỏi xúc động thương nhớ! Mảnh đất xa rồi mà hồn còn như gửi lại. Bài thơ khơi sâu vào những miền kỉ niệm đẹp nhất và cũng mờ ảo lung linh nhất của cái thực và mơ, của cảnh vật quyến luyến và hồn vương vấn:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bển bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Mấy từ "hồn lau nẻo bến bờ" gợi lên biết bao xúc dộng. Ai đã từng sống ở miền rừng núi và thấy những triền lau lất phất bông xám bạc theo gió đẩy đưa mới càng thấy hết ý nghĩa của câụ thơ. Trong hơi lau như có một cái quyến luyến, cảnh vật như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Quang Dũng không chỉ miêu tả cái đẹp mà còn gợi lên phần thiêng liêng của cảnh vật. Bài thơ dường như đã nói được nhiều về con người và cảnh vật nhưng đến đây thì đoàn quân Tây Tiến mới xuất đầu lộ diện với dáng vẻ đặc biệt:
Tây Tiến đoàn binh khộng mọc tóc
Quân xanh màu lá dừ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hình ảnh của người chiến binh được miêu tả trong giai đoạn này qua nhiều bài thơ còn nhiều vất vả, gian truân. Sốt rét là căn bệnh hiểm nguy đối với các chiến sĩ. Tố Hữu đã từng nói đến hình ảnh anh Vệ quốc quân: "Giọt giọt mổ hôi rơi, Trên má anh vàng nghệ (Cá nước). Chính Hữu tả trực tiếp căn bệnh này: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi (Đồng chi). Đơn vị Tây Tiến ở giữa một vùng sốt rét hoành hành nên tóc rụng, da xanh bùng. Quang Dũng không muốn chỉ tả vẻ yếu ớt về hình thức mà muốn nói đến sức mạnh bên trong, đến dũng khí của đoàn quân, vẫn mạnh mẽ, vẫn dữ oai hùm. Những người lính Táy Tiến này phần nhiều là những thanh niên Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu và nén lại bao nhiêu thương nhớ về hậu phương. Nếu như người lính trong thơ Hồng Nguyên nhớ về hình ảnh người vợ "mòn chăn bên cối gạo canh khuya" thì người chíén sĩ Tây Tiến lại có cách nhớ thương riêng của mình:
Mắt trừng gừi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Một thời những câu thơ như thế này rất khó được chấp nhận và thưởng bị quy kết là rơi vào căn bệnh mơ mộng tiểu tư sản. Sao lại có thể ngăn cản được tâm hồn người lính mơ đến hình ảnh một người con gái ở nơi xa ? Tinh cảm ấy không hề làm cho họ mềm yếu, nản lòng trong công việc. Quang Dũng đã miêu tả phẩm chất của người chiến sĩ Tây Tiến với những câu thơ đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh.
Phẩm chất cao đẹp và thử thách lớn lao nhất đối với người lính là ý thức sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Và cũng không chỉ là ý thức, mà ý thức đã biểu hiện trong hành động thực tế. Nhiều người đă hi sinh, những nấm mồ nơi viễn xứ không làm họ lo sợ. Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến nói nhiều đến cái chết nhưng không gây xót xa, đau đớn mà còn tạo được sự cảm phục.
Cuộc đời chinh chiến và cái chết đối với người lính được miêu tả rất thanh thản, nhẹ nhàng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Nhưng rồi cái chết nào chẳng đau đớn, xót xa. Câu thơ: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" như điệu kèn bi tráng nhớ tiếc và ngợi ca tinh thần của người liệt sĩ. Trong thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp, Tây Tiến là bài thơ sớm nói đến cái chết, đến sự hi sinh trong chiến tranh mà không bi lụy.
Bài thơ khép lại với những câu thơ đẹp:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Gian khổ khó khăn nhiều nhưng không một ai thoái thác trách nhiệm. Với họ, một ra đi là không trở lại, ra đi phải giành lấy phần chiến thắng.
Tây Tiến là một sáng tác thơ có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở và vẻ đẹp bình dị, nên thơ cua cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ. hoà hợp với chất trữu tình nhẹ nhàng, mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thở giàu nhạc điệu của cuộc sống và nhạc điệu của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang theo một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển. Khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi cảm, khi dồn dập trong những tiết tấu mạnh, Xuân Diệu cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng. Tây Tiến được viết theo cảm hứng lãng mạn. Những yếu tố cường điệu, phóng đại làm cho cái phi thường, cái đẹp không rơi vào sự giả tạo chỉ tô đậm thêm vẻ đẹp của hình tượng theo phong cách lâng mạn. Bài thơ hấp đẫn và góp phần ghi lại hình ảnh đẹp của người chiến sĩ quân đội trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
(Hà Minh Đức)
Gửi 6 năm trước