- Đặt vấn đề (Từ đầu đến không ai chối cãi được): Mục đích lí tưởng chiến đấu của dân tộc ta ngày nay.
- Giải quyết vấn để: (Từ "Thế mà" đến "Dân tộc đó phải được độc lập")': Tố cáo tội ác bọn thực dân Pháp "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta“: vi phạm chân lí của thời đại.
- Kết thúc vấn đề (Đoạn còn lại): Tuyên bố độc lập và khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững độc lập.
Tuyên ngôn thường có ba phần:
Nêu nguyên lí chung
Chứng minh nguyên lí ấy
Tuyên ngôn.
Tính lôgic chặt chẽ của lập luận đã được thể hiện ở chỗ từ nguyên lí chung làm cơ sở lí luận dẫn đến những dẫn chứng thực tế cần chứng minh để đi đến mục đích là phần tuyên ngôn luận điếm kết luận của văn bản.
Câu 2: Việc trích dẫn Tuyên ngôn độc lập (1776) của nước Mĩ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1791) của Cách mạng Pháp trong phần mở đầu có ý nghĩa gì?
Nếu căn cứ vào lời mở đầu của bản Tuyên ngôn ("Hỡi đồng bào cả nước") và lời tuyên bố ở cuối bản Tuyên ngôn ("Chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng") thì Tuyên ngôn Độc lập viết cho đồng bào cả nước ta và nhân dân thế giới.
Thực ra không đơn giản như vậy. Cần thấy rằng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn thì ở phía Nam, quân viễn chinh Pháp nấp sau lưng quân đội Anh (có nhiệm vụ tước vũ khí quân đội Nhật) đã tiến vào Đông Dương. Còn ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch công chuẩn bị vượt biên giới nước ta, sau lưng chúng là đế quốc Mĩ. Đó là những ngày hết sức căng thẳng. Hồ Chủ tịch biết rõ do mâu thuẫn giữa Anh, Mĩ và Pháp với Liên Xô; Anh, Mĩ có thể sẽ nhân nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương. Nhằm chuẩn bị cho cuộc tái xâm lược đó, Pháp đã sớm tung luận điệu tuyên truyền trước dư luận thế giới rằng việc chúng trở lại Đông Dương là hợp tình hợp lí. Bởi Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công lao khai hóa, xây dựng đất nước này. Pháp thuộc phe Đồng minh chống phát xít nay phát xít Nhật bại trận, đã đầu hàng thì Đông Dương trở về tay Pháp là một lẽ đương nhiên.
Như vậy, đối tượng mà bản Tuyên ngôn Độc lập hướng tới không những là đồng bào cả nước ta, mà còn là nhân dân thế giới, trước hết là Mĩ, Anh và Pháp. Do đó, bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta mà còn bao hàm cuộc tranh luận dể bác bỏ luận điệu xảo quyệt của kẻ địch trước dư luận quốc tế.
Điều này giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập cùa Việt Nam lại mở đầu bằng việc trích dẫn lời văn của bản Tuyên ngôn Độc lập cùa nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp "lấy gậy ông đập lưng ông". Bọn đế quốc Mĩ, thực dân Pháp lẽ nào lại dám bác bỏ những danh ngôn của tổ tiên họ.
Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn thể hiện niềm tự hào dân tộc: đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập và ba bản tuyên ngôn lên ngang hàng với nhau.
Câu 3: Trong phần thứ hai của bản tuyên ngôn, tác giả đã lập luận như thế nào để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Việt Nam ta?
Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn Độc lập, để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Việt Nam ta, tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Trước hết là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân.
Chúng thường khoe khoang công lao khai hoá đối với Đông Dương. Bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ rõ trong 80 năm thống trị nước ta, thực dân Pháp đã thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ, chia rẽ ba Kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng đã gây ra nạn đói khiến "từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói",
Chúng kể công "bảo hộ" thì bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó là tội "trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật".
Thực dân Pháp cho rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại thì bản Tuyên ngôn đã vạch rõ sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền, lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Từ đó, Người viết Tuyên ngôn dẫn đến một kết luận hùng hồn: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật dã trở thành một nước tự do, độc lập".
Để khẳng định điều vừa nói, tác giả đã đưa ra những lí lẽ mạnh mẽ và vững chắc: "Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt minh, đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay phát xít Nhật".
Bản Tuyên ngôn cũng cho thấy, dù thực dân Pháp đê hèn, tàn bạo nhưng nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan dung, nhân đạo đôì với kẻ thù đã thất thế: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ.
Từ những lâp luân vừa nói, tác giả khẳng định .một dân tộc đã hứng chịubao cơ cực, lầm than dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh hùng quật khởi chiến đâu cho độc lập, tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít lại nhân đạo, bác ái như đã nói, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập.
Trong lời kết luận, Người viết Tuyên ngôn còn khẳng định mạnh mẽ, tăng cấp hơn nữa: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đă thành một nước tự do, độc lập. Cũng chính vì thế mà Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Bản Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyêt tâm giữ vững quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Ý chí và khát vọng đó bộc lộ trong toàn văn bản nhưng rõ rệt nhất là ở phần cuối đặc biệt là ở hai đoạn văn "Một dân tộc đã gan góc... phải được độc lập"; "Nước Việt Nam có quyền... giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Giọng văn hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục ấy là của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh, bộc lộ một tấm lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc mănh liệt của một con người mang nặng khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập ấy.
Chính tấm lòng của vị Cha già dân tộc đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến Tuyền ngôn Độc lập không chỉ là một văn bản chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn gây xúc động mãnh liệt lòng người.
Câu 4: Tuyên ngôn độc lập thể hiện phong cách nghệ thuật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong văn chính luận: ngắn gọn, trong sáng, giản dị mà súc tích, đanh thép, sắc sảo. Hãy làm sáng tỏ điều đó?
Bản Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Ý chí và khát vọng dó bộc lộ trong toàn văn bản nhưng rõ rệt nhất là ở phần cuối đặc biệt là ở hai đoạn văn "Một dân tộc đã gan góc... phải được độc lập"; "Nước Việt Nam có quyền... giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Giọng văn hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục ấy là của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh, bộc lộ một tấm lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc mănh liệt của một con người mang nặng khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập áy.
Chính tấm lòng của vị Cha già dân tộc đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến Tuyền ngôn Độc lập không chỉ là một văn bản chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn gây xúc động mãnh liệt lòng người.
ĐỌC THÊM
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hồ Chí Minh
Như đã nói, Bác Hồ có một quan điểm sáng tác hết sức nhất quán: trước hết Người xác định đối tượng viết (viết cho ai) và mục đích viết (viết để làm gì). Từ đó mới quyết định nội dung (viết cái gì) và hình thức (viết thế nào) của tác phẩm.
Nhưng nắm được quan điểm sáng tác của Người chưa đủ, còn cần phải hiểu đặc điểm về mặt thể loại của mỗi tác phẩm của Người nữa. Văn chính luận hay văn thẩm mĩ, thơ tuyên truyền hay thơ nghệ thuật, không phân biệt được điều đó, sự đánh giá không tránh khỏi hồ đồ. Ngoài ra còn phải biết được phong cách viết của Bác nữa. Nét nổi bật của phong cách văn xuôi Bác Hồ là giản dị, trong sáng, ngắn gọn, súc tích.
Chúng ta hãy vận dụng những hiểu biết nói trên vào việc phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận. Văn chính luận thuyết phục người khác bằng những lí lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch bằng lí lẽ. Lợi khí của nó là những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự phục bằng lí lẽ mà thôi. Chúng tạ sẽ nói đến cái hay cái tài của Tuyên ngôn Độc lập theo quan niệm đó.
Bản Tuyên ngôn Độc lập viết cho ai? Câu hỏi đặt ra có vẻ như thừa, bởi vì lời giải đáp đã có sẵn trong văn bản:
"Hỡi đồng bào cả nước"
"... Chúng tôi (...) trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng...".
Như vậy Bác Hổ viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới chứ còn cho ai nữa?
Còn viết để làm gì? Thì viết để "Tuyên ngôn Độc lập" chứ còn mục đích nào khác?
Thực ra vấn đề không hẳn chỉ có thế. Nếu chỉ viết cho đồng bào và thế giới chung chung thì chắc Người không dùng đến lắm lí do như vậy, và chưa hẳn đã cần phải mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Mĩ và Pháp từ thế kỉ XVIII.
Vậy đối tượng và mục đích của văn kiện lịch sử này phải được tìm hiểu cặn kẽ hơn nữa. cần thấy rằng khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh (thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng, tay sai của đế quốc Mĩ, đã chực sẵn ở biên giới. Người viết Tuyên ngôn cũng thừa hiểu rằng "mâu thuẫn giữa Anh - Pháp - Mĩ và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương". Và tên thực dân này, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai của mình, đã tung ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ "hùng hồn" của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi phát xít Nhật đã bị Đồng minh đánh bại.
Như vậy là bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ đọc trước đồng bào và một thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối tượng "thế giới" ở đây, trước hết là bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp và sự khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc ở đây đồng thời còn là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ lí lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới.
Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Người ta gọi thế ấy là "lấy gậy ông đập lưng ông".
Bác Hồ đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyênngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hóa của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo, vì tỏ ra rất trận trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra, mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc.
Mà đăng đối, cân xứng cũng là phải, vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, thực ra đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn đã nêu rõ: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập". Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mĩ: đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mĩ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn cũng viết: "Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa". Đấy cũng là tinh thần cơ bản của cuộc Cách mạng Nhân quyền, Dân quyền của Pháp thế kỉ XVIÏI.
Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bấy giờ, vấn đề hàng đầu đặt ra là độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu như thế:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Ý kiến "suy rộng ra" ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác Hồ đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình".
Vậy có thể xem cái luận điểm "suy rộng ra" kia là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kl XX?
Nhưng kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc khi bản Tuyên ngôn ra đời là bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lí của cuộc kháng chiến, phái nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan những luận điệu xảo trá của bọn thực dân muốn "hợp pháp hóa" cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế.
Bản Tuyên ngồn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hóa của chúng đối với Dông Dương ư? Thì bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động "trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa" của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng, gây ra nạn đói khiến "từ Quàng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói".
Thực dân Pháp muốn kể công ''bảo hộ" Đông Dương ư? thì bản Tuyênngôn chỉ rõ đó không phải là công mà là tội, vì "trong 5 năm, chúng đã bánnước ta hai lần cho Nhật. "
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dương có còn là thuộc địa của Pháp nữa đâu? Bản Tuyên ngôn vạch rõ: "Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp". Luận điểm này, đứng về ý nghĩa pháp lí, cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên ngôn:"Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoả bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có tí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn là lí lẽ của sự thật. Vì thế, Người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ "sự thật": "sự thật" "sự thật" là...". Và cuối cùng thì "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập...". Đây là những điệp khúc nối tiếp nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của Tuyên ngôn.
Đấy là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân.
Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập, tự do hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ để khẳng định.
Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành được chủ quyền từ tay phát xít Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động "thẳng tay khủng bố Việt Minh", "Thậm chí đến khi thua chạy chúng còn nhẫn tâm giết chết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng", thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: "Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ".
Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập, tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế, "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".
Tinh thần khẳng định, trong lời kết luận, còn được tăng cấp trên một bậc nữa: Hưởng độc lập tự do không phải chỉ là một cái quyền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần có, mà đó đã là một hiện thực: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Và vì thế "Toàn thể dãn tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Người ta gọi bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là "Thiên cổ hùng văn". Cũng có thể nói như thế về bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất nhiên bản Tuyên ngôn không ra đời trong thời kì văn học còn nguyên hợp, văn sử bất phân nữa, để tác giả đưa vào bài chính luận của mình những hình tượng hào hùng, tầng tầng lớp lớp như bài Cáo của người xưa. Ngày nay văn chính luận là văn chính luận. Tài nghệ của người viết ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được. Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và của nhân loại.
Chính Bác Hồ tự đánh giá đây là một thành công thứ ba khiến Người cảm "thấy sung sướng" trong cả cuộc đời viết văn, làm báo dày kinh nghiêm của mình.
Hướng dẫn giải
Câu 1: Nêu bố cục của bản Tuyên ngôn Độc lập
Bố cục: Ba phần:
- Đặt vấn đề (Từ đầu đến không ai chối cãi được): Mục đích lí tưởng chiến đấu của dân tộc ta ngày nay.
- Giải quyết vấn để: (Từ "Thế mà" đến "Dân tộc đó phải được độc lập")': Tố cáo tội ác bọn thực dân Pháp "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta“: vi phạm chân lí của thời đại.
- Kết thúc vấn đề (Đoạn còn lại): Tuyên bố độc lập và khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững độc lập.
Tuyên ngôn thường có ba phần:
Tính lôgic chặt chẽ của lập luận đã được thể hiện ở chỗ từ nguyên lí chung làm cơ sở lí luận dẫn đến những dẫn chứng thực tế cần chứng minh để đi đến mục đích là phần tuyên ngôn luận điếm kết luận của văn bản.
Câu 2: Việc trích dẫn Tuyên ngôn độc lập (1776) của nước Mĩ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1791) của Cách mạng Pháp trong phần mở đầu có ý nghĩa gì?
Nếu căn cứ vào lời mở đầu của bản Tuyên ngôn ("Hỡi đồng bào cả nước") và lời tuyên bố ở cuối bản Tuyên ngôn ("Chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng") thì Tuyên ngôn Độc lập viết cho đồng bào cả nước ta và nhân dân thế giới.
Thực ra không đơn giản như vậy. Cần thấy rằng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn thì ở phía Nam, quân viễn chinh Pháp nấp sau lưng quân đội Anh (có nhiệm vụ tước vũ khí quân đội Nhật) đã tiến vào Đông Dương. Còn ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch công chuẩn bị vượt biên giới nước ta, sau lưng chúng là đế quốc Mĩ. Đó là những ngày hết sức căng thẳng. Hồ Chủ tịch biết rõ do mâu thuẫn giữa Anh, Mĩ và Pháp với Liên Xô; Anh, Mĩ có thể sẽ nhân nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương. Nhằm chuẩn bị cho cuộc tái xâm lược đó, Pháp đã sớm tung luận điệu tuyên truyền trước dư luận thế giới rằng việc chúng trở lại Đông Dương là hợp tình hợp lí. Bởi Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công lao khai hóa, xây dựng đất nước này. Pháp thuộc phe Đồng minh chống phát xít nay phát xít Nhật bại trận, đã đầu hàng thì Đông Dương trở về tay Pháp là một lẽ đương nhiên.
Như vậy, đối tượng mà bản Tuyên ngôn Độc lập hướng tới không những là đồng bào cả nước ta, mà còn là nhân dân thế giới, trước hết là Mĩ, Anh và Pháp. Do đó, bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta mà còn bao hàm cuộc tranh luận dể bác bỏ luận điệu xảo quyệt của kẻ địch trước dư luận quốc tế.
Điều này giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập cùa Việt Nam lại mở đầu bằng việc trích dẫn lời văn của bản Tuyên ngôn Độc lập cùa nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp "lấy gậy ông đập lưng ông". Bọn đế quốc Mĩ, thực dân Pháp lẽ nào lại dám bác bỏ những danh ngôn của tổ tiên họ.
Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn thể hiện niềm tự hào dân tộc: đặt ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập và ba bản tuyên ngôn lên ngang hàng với nhau.
Câu 3: Trong phần thứ hai của bản tuyên ngôn, tác giả đã lập luận như thế nào để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Việt Nam ta?
Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn Độc lập, để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Việt Nam ta, tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Trước hết là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân.
Chúng thường khoe khoang công lao khai hoá đối với Đông Dương. Bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ rõ trong 80 năm thống trị nước ta, thực dân Pháp đã thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ, chia rẽ ba Kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng đã gây ra nạn đói khiến "từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói",
Chúng kể công "bảo hộ" thì bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó là tội "trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật".
Thực dân Pháp cho rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại thì bản Tuyên ngôn đã vạch rõ sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền, lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Từ đó, Người viết Tuyên ngôn dẫn đến một kết luận hùng hồn: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật dã trở thành một nước tự do, độc lập".
Để khẳng định điều vừa nói, tác giả đã đưa ra những lí lẽ mạnh mẽ và vững chắc: "Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt minh, đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay phát xít Nhật".
Bản Tuyên ngôn cũng cho thấy, dù thực dân Pháp đê hèn, tàn bạo nhưng nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan dung, nhân đạo đôì với kẻ thù đã thất thế: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ.
Từ những lâp luân vừa nói, tác giả khẳng định .một dân tộc đã hứng chịu bao cơ cực, lầm than dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh hùng quật khởi chiến đâu cho độc lập, tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít lại nhân đạo, bác ái như đã nói, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập.
Trong lời kết luận, Người viết Tuyên ngôn còn khẳng định mạnh mẽ, tăng cấp hơn nữa: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đă thành một nước tự do, độc lập. Cũng chính vì thế mà Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Bản Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyêt tâm giữ vững quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Ý chí và khát vọng đó bộc lộ trong toàn văn bản nhưng rõ rệt nhất là ở phần cuối đặc biệt là ở hai đoạn văn "Một dân tộc đã gan góc... phải được độc lập"; "Nước Việt Nam có quyền... giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Giọng văn hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục ấy là của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh, bộc lộ một tấm lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc mănh liệt của một con người mang nặng khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập ấy.
Chính tấm lòng của vị Cha già dân tộc đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến Tuyền ngôn Độc lập không chỉ là một văn bản chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn gây xúc động mãnh liệt lòng người.
Câu 4: Tuyên ngôn độc lập thể hiện phong cách nghệ thuật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong văn chính luận: ngắn gọn, trong sáng, giản dị mà súc tích, đanh thép, sắc sảo. Hãy làm sáng tỏ điều đó?
Bản Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Ý chí và khát vọng dó bộc lộ trong toàn văn bản nhưng rõ rệt nhất là ở phần cuối đặc biệt là ở hai đoạn văn "Một dân tộc đã gan góc... phải được độc lập"; "Nước Việt Nam có quyền... giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Giọng văn hùng hồn, đanh thép, đầy sức thuyết phục ấy là của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh, bộc lộ một tấm lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc mănh liệt của một con người mang nặng khát vọng độc lập, tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập áy.
Chính tấm lòng của vị Cha già dân tộc đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến Tuyền ngôn Độc lập không chỉ là một văn bản chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn gây xúc động mãnh liệt lòng người.
ĐỌC THÊM
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hồ Chí Minh
Như đã nói, Bác Hồ có một quan điểm sáng tác hết sức nhất quán: trước hết Người xác định đối tượng viết (viết cho ai) và mục đích viết (viết để làm gì). Từ đó mới quyết định nội dung (viết cái gì) và hình thức (viết thế nào) của tác phẩm.
Nhưng nắm được quan điểm sáng tác của Người chưa đủ, còn cần phải hiểu đặc điểm về mặt thể loại của mỗi tác phẩm của Người nữa. Văn chính luận hay văn thẩm mĩ, thơ tuyên truyền hay thơ nghệ thuật, không phân biệt được điều đó, sự đánh giá không tránh khỏi hồ đồ. Ngoài ra còn phải biết được phong cách viết của Bác nữa. Nét nổi bật của phong cách văn xuôi Bác Hồ là giản dị, trong sáng, ngắn gọn, súc tích.
Chúng ta hãy vận dụng những hiểu biết nói trên vào việc phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận. Văn chính luận thuyết phục người khác bằng những lí lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch bằng lí lẽ. Lợi khí của nó là những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự phục bằng lí lẽ mà thôi. Chúng tạ sẽ nói đến cái hay cái tài của Tuyên ngôn Độc lập theo quan niệm đó.
Bản Tuyên ngôn Độc lập viết cho ai? Câu hỏi đặt ra có vẻ như thừa, bởi vì lời giải đáp đã có sẵn trong văn bản:
"Hỡi đồng bào cả nước"
"... Chúng tôi (...) trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng...".
Như vậy Bác Hổ viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới chứ còn cho ai nữa?
Còn viết để làm gì? Thì viết để "Tuyên ngôn Độc lập" chứ còn mục đích nào khác?
Thực ra vấn đề không hẳn chỉ có thế. Nếu chỉ viết cho đồng bào và thế giới chung chung thì chắc Người không dùng đến lắm lí do như vậy, và chưa hẳn đã cần phải mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Mĩ và Pháp từ thế kỉ XVIII.
Vậy đối tượng và mục đích của văn kiện lịch sử này phải được tìm hiểu cặn kẽ hơn nữa. cần thấy rằng khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh (thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng, tay sai của đế quốc Mĩ, đã chực sẵn ở biên giới. Người viết Tuyên ngôn cũng thừa hiểu rằng "mâu thuẫn giữa Anh - Pháp - Mĩ và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương". Và tên thực dân này, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai của mình, đã tung ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ "hùng hồn" của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi phát xít Nhật đã bị Đồng minh đánh bại.
Như vậy là bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ đọc trước đồng bào và một thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối tượng "thế giới" ở đây, trước hết là bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp và sự khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc ở đây đồng thời còn là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ lí lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới.
Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Người ta gọi thế ấy là "lấy gậy ông đập lưng ông".
Bác Hồ đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hóa của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo, vì tỏ ra rất trận trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra, mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc.
Mà đăng đối, cân xứng cũng là phải, vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, thực ra đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn đã nêu rõ: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập". Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mĩ: đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mĩ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn cũng viết: "Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa". Đấy cũng là tinh thần cơ bản của cuộc Cách mạng Nhân quyền, Dân quyền của Pháp thế kỉ XVIÏI.
Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bấy giờ, vấn đề hàng đầu đặt ra là độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu như thế:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Ý kiến "suy rộng ra" ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác Hồ đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình".
Vậy có thể xem cái luận điểm "suy rộng ra" kia là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kl XX?
Nhưng kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc khi bản Tuyên ngôn ra đời là bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lí của cuộc kháng chiến, phái nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan những luận điệu xảo trá của bọn thực dân muốn "hợp pháp hóa" cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế.
Bản Tuyên ngồn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hóa của chúng đối với Dông Dương ư? Thì bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động "trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa" của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột, vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng, gây ra nạn đói khiến "từ Quàng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói".
Thực dân Pháp muốn kể công ''bảo hộ" Đông Dương ư? thì bản Tuyên ngôn chỉ rõ đó không phải là công mà là tội, vì "trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. "
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dương có còn là thuộc địa của Pháp nữa đâu? Bản Tuyên ngôn vạch rõ: "Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp". Luận điểm này, đứng về ý nghĩa pháp lí, cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên ngôn:"Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoả bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có tí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn là lí lẽ của sự thật. Vì thế, Người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ "sự thật": "sự thật" "sự thật" là...". Và cuối cùng thì "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập...". Đây là những điệp khúc nối tiếp nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của Tuyên ngôn.
Đấy là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân.Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập, tự do hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ để khẳng định.
Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành được chủ quyền từ tay phát xít Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động "thẳng tay khủng bố Việt Minh", "Thậm chí đến khi thua chạy chúng còn nhẫn tâm giết chết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng", thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: "Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ".
Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập, tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế, "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".
Tinh thần khẳng định, trong lời kết luận, còn được tăng cấp trên một bậc nữa: Hưởng độc lập tự do không phải chỉ là một cái quyền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần có, mà đó đã là một hiện thực: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Và vì thế "Toàn thể dãn tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Người ta gọi bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là "Thiên cổ hùng văn". Cũng có thể nói như thế về bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất nhiên bản Tuyên ngôn không ra đời trong thời kì văn học còn nguyên hợp, văn sử bất phân nữa, để tác giả đưa vào bài chính luận của mình những hình tượng hào hùng, tầng tầng lớp lớp như bài Cáo của người xưa. Ngày nay văn chính luận là văn chính luận. Tài nghệ của người viết ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được. Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và của nhân loại.
Chính Bác Hồ tự đánh giá đây là một thành công thứ ba khiến Người cảm "thấy sung sướng" trong cả cuộc đời viết văn, làm báo dày kinh nghiêm của mình.
(Nguyễn Đăng Mạnh)
Gửi 6 năm trước